Việt Nam có kho báu lớn gấp 4 lần trữ lượng cả Mỹ và Trung Quốc cộng lại, khai thác 700 năm chưa hết, hiện tự chủ công nghệ khai thác

Admin
Việt Nam đã làm chủ công nghệ khai thác và chế biến bô xít.
Việt Nam có kho báu lớn gấp 4 lần trữ lượng cả Mỹ và Trung Quốc cộng lại, khai thác 700 năm chưa hết, hiện tự chủ công nghệ khai thác - Ảnh 1.

Theo dữ liệu mới nhất của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, Việt Nam có trữ lượng kho báu bô xít lớn khoảng 3,1 tỷ tấn, trong khi đó Trung Quốc có 680 triệu tấn và Mỹ có 20 triệu tấn. Như vậy, Việt Nam nắm trữ lượng lớn gấp 4 lần cả Mỹ và Trung Quốc cộng lại.

Bô xít là một loại quặng nhôm. Từ bô xít có thể tách ra Alumin (Al2O3 - nguyên liệu chính để luyện nhôm trong các lò điện phân). Quá trình sản xuất nhôm từ quặng bô xít trải qua hai công đoạn quan trọng: Sản xuất alumin (Al2O3) theo công nghệ Bayer và điện phân Alumin thành nhôm (Al).

Tại Việt Nam, Đắk Nông đứng đầu cả nước về trữ lượng bô xít. Theo Phó Cục trưởng Cục Địa chất Việt Nam, Đắk Nông là tỉnh có tiềm năng rất lớn về quặng bô xít với trữ lượng bô xít ước khoảng 1,8 tỷ tấn quặng tinh, tương đương 4,2 tỷ tấn quặng nguyên khai, hàm lượng nhôm đạt trên 40%. Hiện quặng bô xít đang chiếm chiếm hơn 57% trữ lượng cả nước.

Nhiều khu vực đã được thăm dò, cấp phép khai thác và ngành khai thác bô xít, chế biến alumin đang dần trở thành một trụ cột trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đặc thù của quặng bô xít là phân bố rộng, trải dài trên nhiều diện tích, trong đó có nhiều khu vực dân cư, đường giao thông, các dự án cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Tại buổi họp tổng kết năm 2024, chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông cho biết, hiện nay tỉnh có 1 nhà máy alumin Nhân Cơ, với trữ lượng hiện nay phải mất 715 năm mới khai thác hết. Trong năm 2024, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn vào Đắk Nông đăng ký đầu tư với khoảng 8 tỷ USD. Trong số này có 4 nhà máy bô xít, tổng mức đầu tư khoảng 1 tỷ USD/nhà máy. Trong trường hợp cả 4 nhà máy đăng ký đầu tư được phê duyệt thì cũng phải mất 300 năm.

Theo Quyết định số 866 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Đắk Nông được quy hoạch 5 cụm mỏ khoáng sản bô xít. Đó là, cụm Nhân Cơ (đã đầu tư và đang vận hành) và các cụm mỏ số 2, 3, 4, 5. Trong đó, đầu tư xây dựng mới các nhà máy chế biến bô xít cho các cụm mỏ số 2, 3, 4, 5 (1 nhà máy/cụm mỏ).

Tại quy hoạch chung tỉnh Đắk Nông đã tích hợp quy hoạch xây dựng 4 dự án nhà máy alumin để chế biến quặng bô xít tại các cụm mỏ số 2, 3, 4, 5. Cụ thể, dự án Nhà máy Alumin Đắk Nông 2 (Đắk Glong); Dự án Nhà máy Alumin Đắk Nông 3 (Đắk Song); Dự án Nhà máy Alumin Đắk Nông 4 (Tuy Đức); Dự án Nhà máy Alumin Đắk Nông 5 (Đắk Glong).

Đắk Nông hiện đã thống nhất cho chủ trương đầu tư các dự án tổ hợp nhà máy chế biến quặng bô xít thuộc các cụm mỏ 2, 3, 4, 5 bảo đảm phù hợp với Quyết định 866, đúng quy định

Về công nghệ, Việt Nam đã làm chủ công nghệ khai thác và chế biến bô xít. Theo Viện Nghiên cứu Cơ khí, từ năm 2020, lần đầu tiên Việt Nam cơ bản nắm vững công nghệ sản xuất alumin với lực lượng nhân sự trẻ, đồng thời thu hút được các nhà đầu tư để từng bước hình thành ngành công nghiệp alumin và luyện nhôm. Đây là nền tảng quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo cơ khí, thiết bị và hóa chất phụ trợ trong nước.

Một trong những bước tiến đáng kể trong sản xuất alumin là việc áp dụng công nghệ thải khô bùn đỏ. Trước đây, bùn đỏ – chất thải phát sinh từ quá trình chế biến bô xít – thường được thải dưới dạng lỏng, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường. Công nghệ thải khô giúp tách nước ra khỏi bùn, biến chúng thành dạng rắn, dễ dàng quản lý và lưu trữ, đồng thời giảm thiểu nguy cơ tràn đổ và ô nhiễm nguồn nước.

Song song với đó, công nghệ Bayer hiện đại được áp dụng trong quá trình chế biến bô xít thành alumin với hiệu suất cao và mức tiêu thụ năng lượng thấp hơn. Các nhà máy alumin tại Việt Nam sử dụng phiên bản cải tiến của công nghệ này nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên.

Đặc biệt, các nhà máy alumin trong nước đều được trang bị hệ thống giám sát tự động, cho phép theo dõi chặt chẽ toàn bộ quá trình sản xuất và kiểm soát phát thải. Việc ứng dụng các công nghệ hiện đại này góp phần đảm bảo quy trình sản xuất luôn tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.